Những nhân vật lịch sử được trang trọng ghi tên vào sử sách là những người đã góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, đưa đất nước tiến lên, được nhân dân quý trọng, đời đời tôn kính.
Xin được chấm phá ít dòng về một số danh nhân tuổi Nhâm Dần nổi tiếng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trong lịch sử dân tộc và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phan Huy Chú (1782-1840)
Danh sỹ triều Nguyễn, nhà bác học, nhà thơ quê huyện Thạch Hà (nay là huyện Lộc Hà), tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con trai thứ ba của Phan Huy Ích, một danh sỹ thời hậu Lê và Tây Sơn.
Thuở nhỏ, ông đã nối tiếng ham học và học giỏi, đỗ Tú tài. Năm 1821, vua Minh Mạng triệu ông vào kinh, làm biên tu ở Viện hàn lâm. Năm 1824, ông được cử sang Phó sứ nhà Thanh. Năm 1828, làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên rồi thăng Hiệp trấn Quảng Nam. Năm 1830, lại giữ chức Phó sứ sang nhà Thanh. Năm 1832, đi Indonesia rồi chuyển về làm việc ở Bộ Công năm 1833.
Sau một thời gian ông chán cảnh quan trường, xin từ quan về làm nghề dạy học, viết sách.
Cống hiến chủ yếu của Phan Huy Chú là công trình biên khảo bộ 'Lịch triều hiến chương loại chí' gồm 49 quyển được ông biên soạn liên tục từ năm 1809 đến năm 1819. Đó là kết quả của những năm miệt mài nghiên cứu với tấm lòng yêu mến đất nước và văn hóa dân tộc, với mong muốn tổng kết lịch sử giúp đời. 'Lịch triều hiến chương loại chí' có dung lượng lớn, là một kho tài liệu sử học rất phong phú, chính xác và được phân loại, hệ thống; là công trình nghiên cứu tiêu biểu đánh dấu thành tựu khoa học của nước ta đầu thế kỷ XIX.
Đinh Công Tráng (1842-1887)
Nhà yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, một trong những thủ lĩnh của khởi nghĩa Ba Đình (huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa) trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp. Ông vốn là Chánh tổng, khi quân Pháp tiến đánh Bắc kỳ lần thứ hai (1882) chiến đấu trong đội quân của Hoàng Tá Viêm và tham gia trận Cầu Giấy ngày 19/5/1883. Năm 1886, ông vào Thanh Hóa tiếp tục chống Pháp cùng với Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt... để xây dựng cứ điểm Ba Đình thành căn cứ địa kháng chiến ở phía Bắc xứ Thanh. Ông trở thành người chỉ huy quân sự chính của căn cứ, đánh bại hai đợt tấn công quy mô lớn của Pháp ngày 18/12/1886 và ngày 6/1/1887, Ông đã chỉ huy quân chủ động phản công phá vòng vây của địch đêm ngày 20, rạng ngày 21/1/1887 rồi rút về căn cứ dự phòng ở Mã Cao.
Ngày 7/9/1887, ông hy sinh khi đang chiến đấu tại Tang Yên, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Căn cứ địa Ba Đình của Đinh Công Tráng sau này được đặt tên cho một quảng trường nổi tiếng bên cạnh lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh - Quảng trường Ba Đình.
Hà Huy Tập (1902-1941)
Nhà hoạt động cộng sản nổi tiếng của Việt Nam, quê ở xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1923, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Tiểu học ở Huế, dạy ở Nha Trang. Năm 1925, tham gia tổ chức Hội Phục Việt và đến giữa năm 1926, ông bị trục xuất khỏi Nha Trang và chuyển về dạy Tiểu học ở Vinh, rồi bị sa thải vì tham gia Hội Phục Việt.
Cuối năm 1928, ông được cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) để bàn về việc hợp nhất Hội Tân Việt với Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, chuyển sang hoạt động ở Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Năm 1929, sang Liên Xô học Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Đầu năm 1934, ông về Ma Cao (Trung Quốc) tham gia chỉ huy Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 3/1935, ông được cử làm Bí thư Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng, trực tiếp chủ trì Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Ma Cao. Đại hội đã thông qua các nghị quyết, bầu ra BCH Trung ương, ông được bầu là Tổng Bí thư.
Tháng 7/1936, ông cùng với Lê Hồng Phong (Ủy viên BCH Quốc tế Cộng sản) triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Trung ương ở Thượng Hải (Trung Quốc) để bổ sung nghị quyết của Trung ương Đảng, chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi hơn nữa và thay đổi các hình thức đấu tranh cho phù hợp với tình hình mới.
Ngày 14/7/1938, do có chỉ điểm, mật thám Pháp đã bắt ông tại Sài Gòn. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Pháp buộc ông 'chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc khởi nghĩa này' và xử tử hình. Trước tòa án thực dân, ông khảng khái tuyên bố 'Tôi chẳng có gì phải hối tiếc. Nếu còn sống, tôi vẫn tiếp tục hoạt động'. Ngày 26/8/1941, ông bị xử bắn tại Hóc Môn (Gia Định) cùng với các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu...
Lê Hồng Phong (1902-1942)
Nhà hoạt động nổi tiếng và là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương (3/1935-5/1936), quê ở xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Đầu năm 1923, ông sang Xiêm (Thái Lan), sau đó đến Trung Quốc để liên lạc với cách mạng, cùng với một số thanh niên yêu nước thành lập tổ chức 'Tâm tâm xã'. Ông đã gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, tham dự các lớp huấn luyện chính trị và học Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc). Năm 1926, ông sang Liên Xô học Trường hàng không ở Leningrad, trở thành sỹ quan của Hồng quân Liên Xô với quân hàm Trung tá.
Năm 1928, ông vào học trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản tại Moscow. Đầu năm 1934, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do ông làm Trưởng ban. Tháng 7/1935, ông là Trưởng đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương tham dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, được bầu vào Ủy viên BCH Quốc tế Cộng sản.
Tháng 3/1935, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Ma Cao (Trung Quốc), ông được bầu làm Tổng Bí thư. Đầu năm 1936, ông về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng, cùng với Hà Huy Tập triệu tập Hội nghị BCH Trung ương lần thứ VII (7/1936). Tháng 11/1937, ông về Sài Gòn cùng BCH Trung ương lãnh đạo phong trào cách mạng. Lúc này vợ ông là Nguyễn Thị Minh Khai đang làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn. Tháng 6/1939, ông bị Pháp bắt và đến tháng 9/1939, bị Pháp bắt lần thứ hai, đày ra Côn Đảo.
Ở Côn Đảo, biết ông là một nhân vật quan trọng của Đảng, Pháp tìm cách giết hại ông, tra tấn dã man và nhốt trong hầm tối. Một thời gian, ông bị kiết lị nặng, sức khỏe suy kiệt và mất tại nhà tù Côn Đảo ngày 6/9/1942.
Phan Đăng Lưu (1902-1941)
Nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản Việt Nam, quê ở xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Năm 1928, ông tham gia xuất bản tác phẩm Quan hải trùng thư tại Huế, được bầu làm Ủy viên Thường vụ của Tổng bộ Đảng Tân Việt. Cuối năm 1928, ông là đại diện Đảng Tân Việt sang Quảng Châu để bàn việc hợp nhất với Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Tháng 9/1929, ông bị bắt tại Hải Phòng, bị kết án tù khổ sai và bị đày ở Buôn Ma Thuột. Ra tù năm 1936, tham gia lãnh đạo phong trào Mặt trận dân chủ ở Huế. Tháng 11/1939, ông được bầu là Ủy viên BCH Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, phân công chỉ đạo phong trào Nam kỳ.
Tháng 7/1940, Xứ ủy Nam kỳ họp đề ra chủ trương khởi nghĩa. Ông khuyên Xứ ủy hãy chờ xin chỉ thị của Trung ương. Sau đó, ông dự Hội nghị Trung ương lần thứ VII và được chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa Nam kỳ. Rời hội nghị, trên đường vào Nam để truyền đạt chỉ thị của Trung ương thì bị mật thám Phát bắt, kết án tử hình, bị bắn ở Hóc Môn (Gia Định) cùng với các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần.